Maria II của Bồ Đào Nha

Maria II của Bồ Đào Nha
Nữ vương của Bồ Đào Nha và Algarves
Tại vị2 tháng 5 năm 1826 – 23 tháng 6 năm 1828
(2 năm, 52 ngày)
Nhiếp chínhIsabel Maria của Bồ Đào Nha
Miguel I
Tiền nhiệmPedro IV
Kế nhiệmMiguel I
Tại vị26 tháng 5 năm 1834 – 15 tháng 11 năm 1853
(19 năm, 173 ngày)
Đồng trị vìFernando II
Tiền nhiệmMiguel I
Kế nhiệmPedro V
Thông tin chung
Sinh4 tháng 4 năm 1819
Cung điện São Cristóvão, Rio de Janeiro, Vương quốc Liên hiệp Bồ Đào Nha, Brasil và Algarves
Mất15 tháng 11 năm 1853 (34 tuổi)
Cung điện Necessidades, Lisbon, Vương quốc Bồ Đào Nha
An tángPantheon của Vương tộc Bragança
Phối ngẫuAuguste, Công tước xứ Leuchtenberg (cưới năm 1834, mất năm 1835)
Fernando II của Bồ Đào Nha
Hậu duệPedro V của Bồ Đào Nha
Luís I của Bồ Đào Nha
Hoàng tử João, Công tước xứ Beja
Maria Ana, Vương tức Sachsen
Antónia, Thân vương phi xứ Hohenzollern-Sigmaringen
Hoàng tử Fernando
Hoàng tử Augusto, Công tước xứ Coimbra
Tên đầy đủ
Maria da Glória Joana Carlota Leopoldina da Cruz Francisca Xavier de Paula Isidora Micaela Gabriela Rafaela Gonzaga
Vương tộcNhà Bragança
Thân phụPedro IV của Bồ Đào Nha
Thân mẫuMaria Leopoldine của Áo
Tôn giáoCông giáo Roma
Chữ kýChữ ký của Maria II của Bồ Đào Nha

Dona Maria II (4 tháng 4 năm 1819 – 15 tháng 11 năm 1853), được mệnh danh là "Nhà giáo dục" (tiếng Bồ Đào Nha: "a Educadora") hay "Người mẹ tốt" (tiếng Bồ Đào Nha: "a Boa Mãe"), là Nữ vương Bồ Đào Nha trong 2 lần, đầu tiên vào năm 1826 đến năm 1828, và lần thứ 2 từ năm 1834 đến năm 1853. Bà sinh ra ở Rio de Janeiro, Vương quốc Brasil, và là con đầu lòng của Hoàng đế Dom Pedro I của Brasil và Hoàng hậu Dona Maria Leopoldine, vì thế bà là thành viên của Vương tộc Bragança.

Maria là một trong hai người con còn sống được sinh ra khi Pedro vẫn còn là người thừa kế rõ ràng của ngai vàng Bồ Đào Nha, bà được thừa kế các tước vị của Bồ Đào Nha và được xếp vào hàng kế vị ngai vàng, ngay cả sau khi trở thành thành viên của hoàng gia Brazil, nơi bà bị loại trừ khỏi danh sách kế vị vương miện đế chế này vào năm 1835 sau khi bà lên ngôi vua Bồ Đào Nha.

Cuộc sống đầu đời

Maria II tên khai sinh là Maria da Glória Joana Carlota Leopoldina da Cruz Francisca Xavier de Paula Isidora Micaela Gabriela Rafaela Gonzaga[1], sinh vào ngày 4 tháng 4 năm 1819 tại Cung điện São Cristóvão ở Rio de Janeiro, Vương quốc Brasil. Cô là con gái lớn của Hoàng tử Dom Pedro de Alcântara, Vua tương lai của Bồ Đào Nha với vương hiệu Pedro IV và Hoàng đế đầu tiên của Brazil với đế hiệu Pedro I, với người vợ đầu tiên Dona Maria Leopoldine (nhũ danh Nữ Đại vương công Karoline Josepha Leopoldine của Áo), bản thân là con gái của Franz II, Hoàng đế La Mã Thần thánh. Khi mới sinh ra, cô được phong là Nữ thân vương xứ Beira. Vì sinh ra ở Brazil, nên Maria là vị quân chủ châu Âu duy nhất được sinh ra bên ngoài châu Âu, mặc dù bà vẫn sinh ra ở lãnh thổ thuộc chủ quyền của Bồ Đào Nha.

Khủng hoảng kế nhiệm

Sự qua đời của Vua Dom João VI, ông nội của Maria, vào tháng 3 năm 1826 đã gây ra một cuộc khủng hoảng kế vị ở Vương quốc Bồ Đào Nha. Nhà vua có một người thừa kế nam là Dom Pedro, cha ruột của Maria, nhưng ông này đã tuyên bố nền độc lập của Brazil vào năm 1822 với tư cách là Hoàng đế. Vị vua quá cố cũng có một người con trai nhỏ là Hoàng tử Dom Miguel, nhưng ông đã phải sống lưu vong ở Đế quốc Áo sau khi lãnh đạo một số cuộc cách mạng chống lại cha mình và chế độ tự do của ông.

Trước khi qua đời, nhà vua đã để lại di chiếu muốn người con gái yêu quý của mình, Dona Isabel Maria, làm nhiếp chính cho đến khi "người thừa kế hợp pháp trở về vương quốc" — nhưng ông đã không chỉ định ai trong số những người con trai của mình là người thừa kế hợp pháp: Hoàng đế theo chủ nghĩa tự do Dom Pedro I hay người theo chủ nghĩa chuyên chế, Miguel đang sống lưu vong.

Hầu hết mọi người coi Pedro là người thừa kế hợp pháp, nhưng Brazil không muốn hoàng đế của mình thống nhất ngai vàng với Bồ Đào Nha một lần nữa. Nhận thức được rằng những người ủng hộ em trai mình đã sẵn sàng đưa Miguel trở lại Bồ Đào Nha để tiếp nhận ngai vàng, Pedro quyết định đưa ra một lựa chọn được đồng thuận hơn: ông sẽ từ bỏ yêu sách ngai vàng Bồ Đào Nha để ủng hộ cô con gái lớn Maria (mới 7 tuổi), và cô ấy sẽ kết hôn với người chú Miguel của mình, người sẽ chấp nhận hiến pháp tự do và đóng vai trò nhiếp chính cho đến khi cháu gái của ông đến tuổi trưởng thành.

Miguel giả vờ chấp nhận, nhưng khi đến Bồ Đào Nha, ông ta ngay lập tức phế truất Maria và xưng vương, đồng thời hủy bỏ hiến pháp tự do. Trong thời gian trị vì của ông, Maria đã đến nhiều triều đình châu Âu, bao gồm cả triều đình của ông ngoại cô ở Viên, cũng như Luân ĐônParis.

Cuộc nổi dạy của chủ nghĩa chuyên chế

Maria II lúc 10 tuổi, 1829

Maria đã nắm giữ ngai vàng Bồ Đào Nha 2 lần, và trong lần đầu tiên làm nhiệm vụ này bị gián đoạn bởi cuộc nổi dậy theo chủ nghĩa chuyên chế do người chú, đồng thời cũng là hôn phu và nhiếp chính Miguel lãnh đạo, người tự xưng là Vua Bồ Đào Nha vào ngày 23 tháng 6 năm 1828. Sau đó bắt đầu Chiến tranh Tự do kéo dài đến năm 1834, năm mà Maria được phục hồi ngai vàng và Miguel một lần nữa phải sống lưu vong ở Đức.

Hầu tước Barbacena, đến Gibraltar cùng công chúa vào ngày 3 tháng 9 năm 1828, được một sứ giả thông báo về những gì đang xảy ra ở Bồ Đào Nha. Ông ta có tầm nhìn xa để hiểu rằng Miguel đến từ Vienna, quyết tâm đặt mình vào vị trí lãnh đạo phong trào chuyên chế, được cố vấn bởi Thân vương Klemens von Metternich, người đang chỉ đạo chính trị châu Âu, và vì vậy việc Nữ vương trẻ đến Vienna là rất nguy hiểm. Vị hầu tước đã thay đổi hướng của cuộc hành trình và khởi hành đến London, và đến nơi vào ngày 7 tháng 10. Chính sách của Vương quốc Anh không có lợi cho mục đích khôi phục ngai vàng cho Maria. Văn phòng của Công tước xứ Wellington đã công khai tài trợ cho Miguel, vì vậy nơi tị nạn mà Hầu tước tìm kiếm không an toàn. Maria II đã được đón chào trọng thị với những vinh dự do có cấp bậc cao, nhưng người Anh đã ngăn cản thần dân của họ hoặc những người Bồ Đào Nha di cư đến tiếp viện cho lực lượng đồn trú trên đảo Terceira.

Nữ vương rời London để gặp mẹ kế tương lai của mình là Amélie xứ Leuchtenberg. Họ cùng nhau rời đi vào ngày 30 tháng 8 năm 1829 đến Rio de Janeiro, đến nơi vào ngày 16 tháng 10.

Những người di cư phân tán (Pháp, Anh và Brazil) được chia thành các phe đối địch. Chỉ đảo Terceira công nhận các nguyên tắc hiến pháp, và thậm chí còn xuất hiện du kích Miguelist. Pháp đã sẵn sàng công nhận chính phủ của Miguel khi cuộc cách mạng tháng Bảy nổ ra ở Paris vào năm 1830, điều này đã khuyến khích những người theo chủ nghĩa tự do Bồ Đào Nha.

Nội chiến

Vào ngày 7 tháng 4 năm 1831, Dom Pedro I đã tuyên bố thoái vị để ngai vàng lại cho con trai là Dom Pedro II, em trai của Maria. Ông cùng với con gái và vợ rời Đế quốc Brasil trở về châu Âu chiến đấu chống lại Miguel để khôi phục lại ngai vàng Bồ Đào Nha cho con gái. Kể từ khi thoái vị, Pedro I lấy tước hiệu Công tước xứ Braganza và làm Nhiếp chính vương cho con gái.

Gia đình nhỏ của ông đặt chân đến Paris và được Vua Louis-Philippe I của Pháp chào đón một cách đầy cảm thông. Chính vợ chồng của vua Pháp sau đó đã trở thành bố mẹ đỡ đầu cho người con gái của ông với người vợ thứ 2, Công chúa Maria Amélia. Pedro đã mời đại diện ngoại giao của Brasil tại Pháp đến chứng kiến để hợp thức hoá việc Maria Amelia là hoàng nữ của Đế chế Brasil. Chỉ 20 ngày sau khi người con gái út ra đời, Pedro đã rời Pháp để đến Bồ Đào Nha cùng với lực lượng ủng hộ ông để thực hiện cuộc nội chiến chống lại người em Miguel đã cướp ngôi của con gái mình. Cựu hoàng hậu Amélie xứ Leuchtenburg vẫn ở lại Paris cùng 2 cô con gái, và bà đã yêu thương Nữ vương Maria II của Bồ Đào Nha như con ruột của mình.

Củng cố quyền lực

Cai trị

Cái chết

Hôn nhân và hậu duệ

Vinh dự

Gia phả

Gia phả của Maria II của Bồ Đào Nha
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
16. José I của Bồ Đào Nha
 
 
 
 
 
 
 
8. Maria I của Bồ Đào Nha
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
17. Mariana Victoria của Tây Ban Nha
 
 
 
 
 
 
 
4. João VI của Bồ Đào Nha
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
18. João V của Bồ Đào Nha
 
 
 
 
 
 
 
9. Pedro III của Bồ Đào Nha
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
19. Maria Anna Josepha của Áo
 
 
 
 
 
 
 
2. Pedro I của Brasil và IV của Bồ Đào Nha
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
20. Carlos III của Tây Ban Nha
 
 
 
 
 
 
 
10. Carlos IV của Tây Ban Nha
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
21. Maria Amalia của Sachsen
 
 
 
 
 
 
 
5. Carlota Joaquina của Tây Ban Nha
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
22. Filippo I xứ Parma
 
 
 
 
 
 
 
11. María Luisa của Parma
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
23. Louise Élisabeth của Pháp
 
 
 
 
 
 
 
1. Maria II của Bồ Đào Nha[2]
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
24. Franz I của Thánh chế La Mã
 
 
 
 
 
 
 
12. Leopold II của Thánh chế La Mã
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
25. Maria Theresia I của Áo
 
 
 
 
 
 
 
6. Franz II của Thánh chế La Mã và I của Áo
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
26. Carlos III của Tây Ban Nha
 
 
 
 
 
 
 
13. María Luisa của Tây Ban Nha
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
27. Maria Amalia của Sachsen
 
 
 
 
 
 
 
3. Maria Leopoldine của Áo
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
28. Carlos III của Tây Ban Nha
 
 
 
 
 
 
 
14. Ferdinando I của Hai Sicilie
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
29. Maria Amalia của Sachsen
 
 
 
 
 
 
 
7. Maria Teresa của Napoli và Sicilia
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
30. Franz I của Thánh chế La Mã
 
 
 
 
 
 
 
15. Maria Karolina của Áo
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
31. Maria Theresia I của Áo
 
 
 
 
 
 

Trong văn hoá đại chúng

Tham khảo

  1. ^ Sousa 1972a, tr. 112.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFSousa1972a (trợ giúp)
  2. ^ Barman (1999), p.8
  • x
  • t
  • s
Vương tộc Borgonha (1139–1383)
  • Afonso I
  • Sancho I
  • Afonso II
  • Sancho II
  • Afonso III
  • Dinis I
  • Afonso IV
  • Pedro I
  • Fernando I
  • Beatriz I
Vương tộc Avis (1385–1580)
Vương tộc Habsburgo (1581–1640)
Vương tộc Bragança (1640–1910)
Những vị đang bị tranh cãi về tính chính thống sẽ được in nghiêng.
  • x
  • t
  • s
Thế hệ được tính từ hậu duệ của Afonso I của Bồ Đào Nha, tiếp nối thông qua Vương tộc Avis, Vương tộc Habsburgo thông qua Infanta Isabel của Bồ Đào Nha, Hoàng hậu Thánh chế La Mã và Vương hậu Tây Ban NhaVương tộc Bragança thông qua Infanta Catarina của Bồ Đào Nha, Công tước phu nhân xứ Bragança.
Thế hệ thứ 1
Thế hệ thứ 2
  • Teresa, Chân phước và Vương hậu León
  • Infanta Sancha, Lady of Alenquer
  • Mafalda, Vương hậu Castilla
  • Branca, Nữ chúa xứ Guadalajara
  • Berengária, Vương hậu Đan Mạch
Thế hệ thứ 3
  • Leonor, Vương hậu Đan Mạch
Thế hệ thứ 4
  • Branca, Lady of Las Huelgas
  • Infanta Sancha
  • Maria, nữ tu
Thế hệ thứ 5
  • Constança, Vương hậu Castilla và León
  • Maria, Nữ chúa xứ Meneses và Orduña
Thế hệ thứ 6
Thế hệ thứ 7
  • Maria, Hầu tước phu nhân xứ Tortosa
  • Beatriz, Bá tước phu nhân xứ Alburquerque
Thế hệ thứ 8
  • Beatriz, Nữ vương Bồ Đào Nha (tranh cãi), Vương hậu Castilla và León
  • Isabel, Công tước phu nhân xứ Bourgogne
Thế hệ thứ 9
Thế hệ thứ 10
  • Joana, Chân phước và Nữ Thân vương của Bồ Đào Nha
  • Leonor, Vương hậu Bồ Đào Nha
  • Isabel, Công tước phu nhân xứ Bragança
Thế hệ thứ 11
Thế hệ thứ 12
  • Maria Manuela, Nữ Thân vương của Bồ Đào Nha và Thân vương phi xứ Asturias
  • Maria, Công thế tử phi xứ Parma
  • Catarina, Công tước phu nhân xứ Bragança
Thế hệ thứ 13
Thế hệ thứ 14
Thế hệ thứ 15
Thế hệ thứ 16
  • Isabel Luísa, Nữ Thân vương xứ Beira
  • Infanta Francisca Josefa
Thế hệ thứ 17
  • Bárbara, Vương hậu nước Tây Ban Nha
Thế hệ thứ 18
Thế hệ thứ 19
Thế hệ thứ 20
Thế hệ thứ 21
Thế hệ thứ 22
* cũng là Vương nữ Tây Ban Nha và Nữ Đại vương công Áo,  ** cũng là Hoàng nữ Brasil,  *** also a princess of Saxe-Coburg and Gotha, Duchess in Saxony,  Cũng là Vương nữ Bragança,  ¤ title removed in 1920 as her parents' marriage was deemed undynastic,   ƒ claimant infanta
  • x
  • t
  • s
Thế hệ thứ 1
Thế hệ thứ 2
  • Isabel, Hoàng thái nữ Brasil
  • Leopoldina, Thân vương phi xứ Sachsen-Coburg và Gotha